Ứng dụng mô hình quaids phân tích tác động của giá cả và thu nhập đến cầu lương thực, thực phẩm ở Việt Nam

|

Ứng dụng mô hình quaids phân tích tác động của giá cả và thu nhập đến cầu lương thực, thực phẩm ở Việt Nam

Nghiên cứu về cấu trúc cầu lương thực thực phẩm được tiến hành khá rộng rãi ở các nước trên thế giới nhưng ở Việt Nam vấn đề này chưa phát triển mạnh. Trong bối cảnh thế giới cũng như Việt Nam những năm gần đây có nhiều biến động phức tạp, dịch bệnh, suy thoái kinh tế, giá lương thực thực phẩm tăng... thì việc đánh giá tác động theo giá của lương thực thực phẩm và thu nhập của hộ gia đình đến quyết định chi tiêu cho ăn uống của mỗi hộ gia đình là một vấn đề rất đáng quan tâm. Trong đó sử dụng mô hình kinh tế lượng vào việc phân tích cho các kết quả có độ tin cậy cao là cơ sở để đưa ra các kiến nghị về chính sách phát triển trong tương lai.

Cơ sở lý thuyết:

Mô hình QUAIDS được phát triển bởi Banks & Matsuda(1997, có dạng tổng quát:
Trong đó: wi là tỉ phần chi tiêu cho mặt hàng i, pj là giá của mặt hàng j, x là tổng chi tiêu của các mặt hàng có trong hệ thống, γ là hệ số của biến giá, β là hệ số của biến chi tiêu (thu nhập) và η là hệ số của biến chi tiêu bình phương. Hk là tập hợp các biến nhân khẩu học và các biến kinh tế xã hội khác cũng được đưa vào mô hình nhằm mục đích đo lường những tác động của các biến này đến cầu tiêu dùng, cũng như để phản ánh bản chất của dữ liệu khảo sát ở mức độ hộ gia đình.
Để thoả mãn các tính chất của lí thuyết cầu, các ràng buộc lên các tham số của mô hình QUAIDS là cần thiết, cụ thể:
Tính cộng dồn:
 

Phương pháp nghiên cứu:

Dữ liệu cho nghiên cứu này được thu thập từ cuộc điều tra về mức sống của hộ gia đình ở Việt Nam (VHLSS 2018) do Tổng cục Thống kê thực hiện, mục đích thu thập số liệu về mức sống của hộ gia đình, được đo lường bằng thu nhập và chi tiêu của hộ. Số liệu này còn là cơ sở dùng để đánh giá tình trạng đói nghèo, sự phân hóa giàu nghèo.. từ đó có thể kiến nghị các chính sách nhằm cải thiện mức sống cho người dân. Cách lựa chọn phân nhóm thực phẩm dựa trên các tiêu chí về tính sẵn có của sự liệu trong VHLSS 2018, đồng thời sắp xếp theo cách tương đồng về nguồn gốc hoặc thành phần dinh dưỡng, phương thức chế biến và tập quán ăn uống của hộ gia đình.

Kết quả mô hình và thảo luận

Trong phân tích việc tính toán độ co giãn (theo giá và theo chi tiêu) đóng vai trò quan trọng, vì đây sẽ là cơ sở để điều chỉnh giá, rút ra các ý nghĩa kinh tế và đưa ra các chính sách phù hợp.
Kết quả m&ocirc; hình chỉ ra đa phần độ co gi&atilde;n theo giá ri&ecirc;ng của Hicksian đều < 0, có nghĩa khi giá c&aacute;c mặt hàng tăng thì chi tiêu cho mặt hàng đó sẽ giảm. Đồng thời cả 9 mặt hàng (gạo (-0,6361); ng&ocirc; khoai và c&aacute;c thực phẩm khác (-0,7273); thịt và c&aacute;c loại thịt (-0,4832); dầu, mỡ, mắm, gia vị  ( -0,3386 ); t&ocirc;m c&aacute; và thủy sản (-0,3972); trứng (-0,2580); đậu vừng lạc và c&aacute;c loại hạt ( -0,5764 ); đồ uống (-0,7154 ); rau và hoa quả ( -0,3502) đều có cầu co gi&atilde;n ít (0 < < 1 ). Ri&ecirc;ng đường sữa bánh kẹo mật (0,1948) có độ co gi&atilde;n theo giá ri&ecirc;ng > 0 hàm ý khi giá tăng thì chi tiêu cho nhóm hàng này vẫn tăng (hàng hóa Giffen).

Độ co gi&atilde;n theo giá ri&ecirc;ng của Marshallian tương đồng với độ co gi&atilde;n của Hicksian, cho thấy 9 mặt hàng có hệ số co gi&atilde;n < 0 (trừ trứng và đường, bánh kẹo, sữa mật). Độ co gi&atilde;n của Marshallian theo giá ri&ecirc;ng bao gồm 2 ảnh hưởng: ảnh hưởng thay thế và ảnh hưởng thu nhập. Cụ thể: gạo (-0,7772); ng&ocirc; khoai và c&aacute;c thực phẩm khác (-0,7721); thịt và c&aacute;c loại thịt (-0,8020); dầu, mỡ, mắm, gia vị (-0,3654); t&ocirc;m, c&aacute; và thủy sản (-0,5868); trứng (-0,2713); đậu, vừng, lạc và c&aacute;c loại hạt (-0,5974); đồ uống (-0,8415); rau và hoa quả ( -0,4044 ) hàm ý là: nếu giá của c&aacute;c mặt hàng này giảm 10% (với điều kiện c&aacute;c yếu tố khác kh&ocirc;ng đổi) thì lượng cầu gạo; ng&ocirc; khoai và c&aacute;c thực phẩm khác; thịt và c&aacute;c loại thịt; dầu mỡ  mắm gia vị; t&ocirc;m c&aacute; và thủy sản; trứng; đậu vừng lạc và c&aacute;c loại hạt; đồ uống; rau và hoa quả sẽ tăng l&ecirc;n, lần lượt là 7,772%; 7,7721%; 8,020%; 3,654%; 5,868%; 2,713%; 5,974%; 8,415%; 4,044%. Nghĩa là phần tăng l&ecirc;n trong ảnh hưởng thay thế này chính là độ bù đắp (Hicksian ). Ảnh hưởng thu nhập của việc giá giảm giải thích phần còn lại (ch&ecirc;nh lệch với độ co gi&atilde;n Hicksian) là: gạo (1,411%); ng&ocirc; khoai và c&aacute;c thực phẩm khác (0,448%); thịt và c&aacute;c loại thịt (3,188%); dầu mỡ mắm gia vị (0,268%); t&ocirc;m c&aacute; và thủy sản (1,896%); trứng (0,133%); đậu vừng lạc và c&aacute;c loại hạt (0,21%); đồ uống (1,261%), rau và hoa quả ( 0,542%).

Kết quả bảng 1 cho thấy trừ hàng Giffen ( đường bánh kẹo sữa mật), c&aacute;c mặt hàng khác đều có độ co gi&atilde;n theo giá ri&ecirc;ng Marshallian lớn hơn độ co gi&atilde;n theo giá ri&ecirc;ng Hicksian. Trong đó có 3 mặt hàng gạo; thịt và c&aacute;c loại thịt; t&ocirc;m c&aacute; và thủy sản có sự ch&ecirc;nh lệch giữa 2 độ co gi&atilde;n này lớn nhất. Điều này có nghĩa là phản ứng về giá đối với 3 mặt hàng này phụ thuộc nhiều thu nhập. Vậy khi thu nhập kh&ocirc;ng thay đổi thì hộ gia đình sẽ có xu hướng ít nhạy cảm hơn đối với 3 mặt hàng này.
Độ co gi&atilde;n theo giá chéo
Độ co gi&atilde;n theo giá chéo giúp xác định được mối quan hệ giữa 2 hàng hóa. Nếu độ co gi&atilde;n chéo dương thì là hai hàng hóa thay thế; nếu độ co gi&atilde;n chéo âm thì là hai hàng hóa bổ sung; độ co gi&atilde;n chéo bằng kh&ocirc;ng thì hai hàng hóa đó độc lập với nhau.


 

Kết quả tính toán từ dữ liệu năm 2018 cho thấy độ co gi&atilde;n theo giá chéo ( số nằm ngoài đường chéo của bảng 2) cho thấy đa phần mang giá trị dương, vì vậy chủ yếu đ&acirc;y là những hàng hóa thay thế cho nhau. Tác động thay thế thể hiện mạnh nhất ở nhóm hàng gạo với đậu vừng lạc và c&aacute;c loại thực phẩm khác (0,4305). Cụ thể nếu giá gạo tăng 10% sẽ làm giảm lượng cầu của đậu vừng lạc là 4,305%. Ri&ecirc;ng đối với mặt hàng đường bánh kẹo sữa mật có độ co gi&atilde;n chéo âm với hầu hết c&aacute;c nhóm hàng còn lại ( trừ nhóm hàng rau và hoa quả) vì vậy đường và c&aacute;c mặt hàng khác là hàng hóa bổ sung.
Kết quả tính toán với độ co gi&atilde;n theo giá chéo của Marshallian năm 2018 đa phần mang giá trị âm, khác với độ co gi&atilde;n theo giá chéo của Hicksian đa phần mang giá trị dương. Đặc biệt, đối với một số hàng hóa có độ co gi&atilde;n kh&ocirc;ng bù đắp (Marshallian) là âm, còn ước lượng độ co gi&atilde;n bù đắp (Hicksian) là dương. Ví dụ: độ co gi&atilde;n theo giá chéo ( Hicksian ) của gạo với đồ uống năm 2018 là 0,0946 nhưng hệ số co gi&atilde;n theo giá chéo ( Marshallian) là -0,1123. Điều này chỉ ra rằng trong những trường hợp này thì ảnh hưởng thu nhập có tác động mạnh hơn ảnh hưởng thay thế l&ecirc;n tiêu dùng c&aacute;c mặt hàng này.

Nhìn chung, tất cả c&aacute;c độ co dãn kh&ocirc;ng bù đắp (Marshallian) và bù đắp (Hicksian) theo giá chéo giữa c&aacute;c mặt hàng đều kh&ocirc;ng lớn. Điều này cho thấy cả khả năng thay thế và bổ sung của 10 mặt hàng trong nhóm lương thực thực phẩm kh&ocirc;ng quá mạnh. Tuy nhi&ecirc;n,  nếu chỉ đơn thuần muốn xét đến khả năng có thể thay thế giữa c&aacute;c mặt hàng với nhau thì độ co gi&atilde;n bù đắp (Hicksian) là một lựa chọn hợp lý nhất vì nó chỉ đơn thuần phản ánh ảnh hưởng thay thế l&ecirc;n tiêu dùng giữa c&aacute;c hàng hóa.
  • Độ co gi&atilde;n theo chi tiêu
Độ co gi&atilde;n của cầu theo chi tiêu ( thu nhập) giải thích sự thay đổi của lượng cầu khi thu nhập thay đổi, cụ thể: khi thu nhập thay đổi 1% (với c&aacute;c yếu tố khác kh&ocirc;ng đổi) thì lượng cầu theo đổi bao nhiêu %.


Kết quả bảng 4 chỉ ra cho thấy cả 10 mặt hàng đều có hệ số co gi&atilde;n dương, đồng nghĩa tất cả c&aacute;c mặt hàng này đều là hàng hóa th&ocirc;ng thường. Gạo; đường bánh kẹo sữa mật; rau và hoa quả; ng&ocirc; khoai và c&aacute;c loại thực phẩm khác; đậu vừng lạc và c&aacute;c loại hạt; dầu, mỡ, mắm và gia vị; trứng ít co gi&atilde;n theo chi tiêu (độ co gi&atilde;n nằm trong khoảng (0,1)) vì vậy có thể coi đ&acirc;y c&aacute;c mặt hàng thiết yếu. Trong đó trứng là mặt hàng có độ gi&atilde;n theo chi tiêu thấp nhất 0,6437. Điều này có nghĩa là khi thu nhập thay đổi thì chi tiêu cho trứng kh&ocirc;ng thay đổi quá nhiều. Ba mặt hàng có độ co gi&atilde;n theo chi tiêu cao ( >1) là: t&ocirc;m c&aacute; và thủy sản (1,1376); đồ uống ( 1,2279); thịt và c&aacute;c loại thịt ( 1,0925): đ&acirc;y c&aacute;c mặt hàng xa xỉ. Nếu Việt Nam giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập người d&acirc;n được cải thiện, họ sẵn sàng cải thiện bữa ăn bằng chi tiêu nhiều hơn cho 3 nhóm hàng t&ocirc;m c&aacute; và thủy sản; thịt và c&aacute;c loại thịt; đồ uống.

Kết luận và kiến nghị:

Sử dụng m&ocirc; hình QUAIDS để ước lượng hàm cầu thực phẩm Việt Nam với bộ dữ liệu khảo sát mức sống d&acirc;n cư năm 2018 có thể rút ra một số kết luận:
  • Ba mặt hàng: Thịt và c&aacute;c loại thịt; t&ocirc;m c&aacute; và thủy sản; đồ uống được xác định là những hàng hóa xa xỉ. Điều này cho thấy quan điểm của người Việt Nam ngày nay đang rất chú trọng đến bổ sung những hàng hóa này trong bữa ăn gia đình. Đặc biệt nhóm hàng đồ uống đang có xu hướng được người tiêu dùng ngày càng quan tâm, dành nhiều chi tiêu cho nó hơn. Đ&acirc;y chính là cơ hội của c&aacute;c c&ocirc;ng ty thuộc ngành đồ uống có thể đưa ra c&aacute;c chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng, mở rộng thị phần tại Việt Nam – một đất nước có d&acirc;n số đ&ocirc;ng là một thị trường đầy tiềm năng.
  • Hệ số co gi&atilde;n theo giá ri&ecirc;ng của Marshallian cao hơn hệ số có gi&atilde;n theo giá ri&ecirc;ng của Hicks ( trừ 2 hàng hóa Giffen) hàm ý sự tác động của thu nhập đến lượng cầu hàng hóa lớn hơn sự tác động thay thế (sự tác động của giá cả). Vì vậy, đối với Việt Nam, muốn cải thiện chất lượng bữa ăn cho người d&acirc;n cần tập trung vào c&aacute;c chính sách cải thiện thu nhập.
  • Hệ số co gi&atilde;n theo giá ri&ecirc;ng của Hicksian và Marshallian đều nhỏ hơn 1 ( cầu ít co gi&atilde;n) cho thấy sự thay đổi về giá kh&ocirc;ng tác động quá lớn được lượng cầu hàng hóa (đặc biệt là nhóm hàng trứng; gạo). Do vậy, nếu xảy ra c&aacute;c cú sốc đối với nền kinh tế, muốn kích cầu tiêu dùng thì c&aacute;c chính sách về giá kh&ocirc;ng có tác động lớn.

ThS. NCS Vũ Thị Thanh Huyền

Khoa Kinh tế học - Đại học Kinh tế Quốc d&acirc;n

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Deaton, A, and J Muellbauer. “An Almost Ideal Demand System.” American Economics Review 70 (1980a). Deaton, Angus, and John Muellbauer. Economics and Consumer Behavior. Cambridge: Cambridge Univ.
Press, 1980b.
Linh Vu Hoang (2009), ‘Estimation of Food Demand from Household Survey Data in Vietnam’, Working Paper Series No. 2009/12m truy cập từ http://www.depocenwp.org
Nguyễn Hữu Dũng, Nguyễn Ngọc Thuyết (2015),‘ Ảnh hưởng của thu nhập và giá cả đến chi tiêu cho thực phẩm của c&aacute;c hộ gia đình Việt Nam’, Kinh tế, tr. 12 – 23

trang web giải trí rồng nở